VẪN LÀ MÌNH, NGƯỜI DŨNG SỸ CẮM CỜ TRÊN ĐỒI HIM LAM!
“Một 22-12 nữa lại đến, nhân 64 năm ngày thành lập Quân đội ta, tôi viết câu chuyện nhỏ này như là thắp một nén nhang cắm trên bàn thờ người dũng sĩ trận Him Lam năm xưa, người đã sống như những lời tâm niệm “là người lính chân chính dù thế nào cũng phải thể hiện “mình vẫn là mình” – Câu chuyện cảm động về dũng sĩ khuyết đôi mắt Nguyễn Hữu Oanh – người cắm cờ trên đồi Him Lam, qua lời kể của một cây bút quân đội, suốt nhiều năm đi xác minh lại tên cho người “dũng sĩ” Nguyễn Hữu Oanh là anh Trịnh Thanh Phi.
Người cắm cờ “quyết chiến quyết thắng”
Cách đây vừa tròn 50 năm, tôi và đám bạn chăn trâu ở quê đã rất ngưỡng mộ và rồi có dịp làm quen anh, người đội trưởng xung kích đã chỉ huy tiểu đội đánh thọc sâu vào trung tâm và là người có vinh dự cắm lá cờ “quyết chiến quyết thắng” trên cứ điểm Him Lam, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ.
Chiến sĩ Nguyễn Hữu Oanh
Anh là Nguyễn Hữu Oanh, thương binh hạng 1/4, mù hai mắt, mất một cẳng tay trái vì vướng mìn địch khi chiến dịch Điện Biên Phủ đi được nửa chặng đường. Anh sinh năm 1929, quê thôn Phường Nga, Xã Yên Trung, huyện Yên Định, Thanh Hoá, nhập ngũ tháng 7-1949 trong hoàn cảnh trốn khỏi nhà địa chủ theo bộ đội.
Hồi đó, từ trại thương binh mù 139 Nguyễn Thái Học, lần đầu tiên sau chiến tranh chống Pháp kết thúc, anh được về thăm quê để làm thủ tục dạm hỏi chị Nguyễn Thị Thanh, người con gái ở thôn tôi, làm vợ.
Nhà chị Thanh cạnh bờ sông Cầu Chày bên bãi cỏ mênh mông, là nơi lũ trẻ chúng tôi thường chăn trâu.
Chính vì vậy sự xuất hiện của người thanh niên có chiếc kính đen to với cây gậy dò đường trên ngực áo gắn ngay ngắn tấm huy hiệu“chiến sĩ Điện Biên” đã tạo nên sức hút rất mạnh tới lũ trẻ chăn trâu chúng tôi.
Khi hiểu sự tình, bọn trẻ chúng tôi rất lấy làm tự hào về anh, một người con quê hương đã có vinh dự cắm cờ Bác Hồ trao trên nóc lô cốt địch ở cứ điểm Him Lam mở màn chiến dịch.
Vì vậy, những hôm người nhà dẫn anh tới nhà chị Thanh, đám trẻ chúng tôi lại nhao nhao bắt anh ngồi xuống bãi cỏ ven sông đòi anh kể chuyện kéo pháo qua đèo “Trâu khóc”, chuyện “kéo pháo ra, kéo pháo vào”… rồi trận mở màn Him Lam rất ác liệt rồi cuối cùng quân ta giành phần thắng.
Thời gian trôi nhanh, năm 1959 đám cưới anh Oanh, chị Thanh được tổ chức tại Hà Nội. Bọn trẻ chúng tôi đều trưởng thành và mùa thu năm 1966 tôi nhập ngũ. Suốt từ đó đến hơn hai chục năm sau do đóng quân xa Hà Nội nên tôi không có dịp liên lạc gặp anh chị Oanh, Thanh.
Dẫu vậy, kể cả trong những năm tháng dài nơi chiến trường Quảng Trị hoặc đóng quân trên biên cương phía bắc, hình ảnh người dũng sĩ Điện Biên, thương binh mù Nguyễn Hữu Oanh luôn in đậm trong ký ức tôi.
Từ Nguyễn Hữu Oanh thành… Trần Oanh
Bẵng đi vì công việc, đến năm 2002, với cương vị đoàn trưởng Đoàn Kịch nói Quân đội, do yêu cầu cần có kịch bản với chủ đề Điện Biên Phủ để chuẩn bị cho đoàn dàn dựng chào mừng 50 năm chiến thắng lẫy lừng, tôi tìm đọc nhiều sách viết về Điện Biên, về Lịch sử Sư đoàn 312 – đơn vị của anh Nguyễn Hữu Oanh trong chiến dịch này.
Ảnh
Cựu chiến binh Nguyễn Hữu Oanh, nguyên tiểu đội trưởng xung kích trận đánh Him Lan (giữa) và bà Nguyễn Thị Thanh, vợ cựu chiến binh Hữu Oanh
Khi đọc đoạn trận đánh Him Lam trong cuốn sử Sư đoàn 312 và các sách khác, sự kiện trận đánh Him Lam đều được ghi khá chi tiết đai ý:
“Đúng 17 giờ 30 phút ngày 13-3-1954 quân ta được lệnh tấn công cứ điểm Him Lam. Khi có lệnh nổ súng, các mũi quân ta đồng loạt tấn công địch cả 3 mỏm 1,2,3 cứ điểm địch.
Trong khi mũi tiến công mỏm 2 và 3 phát triển thuận lợi thì hướng mỏm 1, mũi chủ yếu của tiểu đoàn 11 gặp ngay khó khăn khi đột phá mở cửa hàng rào.
Đại đội 243 sau khi phá được 7 hàng rào, đến hàng rào cuối cùng thì bị hai hoả điểm địch bắn chéo cánh sẻ rất quyết liệt làm tiểu đoàn 11 không thể nào tiến lên được. Tình hình vô cùng khẩn trương, nếu không dứt điểm, địch trong Him Lam có thể phản kích, các cứ điểm địch khác có thể tiếp viện giải vây.
Trước tình thế đó, đại đội 243 được lệnh xử dụng lực lượng bộc phá dự bị có đại liên yểm trợ bằng mọi cách phải quyết tử lao lên đánh bung hàng rào cuối cùng.
Loạt bộc phá vừa dứt, tiểu đội trưởng xung kích Trần Oanh (đúng ra phải là Nguyễn Hữu Oanh) dẫn đầu tiểu đội dao nhọn lao thẳng vào trung tâm như lốc cuốn dẫn đầu đội hình xung kích của tiểu đoàn 11 toả đánh chiếm các mục tiêu.
Bị địch cản lại, Nguyễn Hữu Oanh phân công 5 chiến sĩ đánh các lô cốt nhỏ, còn anh với quả thủ pháo trong tay, bằng động tác mau lẹ và chính xác anh đút qua lỗ châu mai tiêu diệt bọn địch trong lô cốt mẹ và anh nhảy lên nóc lô cốt phất cờ “quyết chiến qưuyết thắng” vẫy toàn đơn vị đánh thẳng vào trung tâm cứ điểm.
Đến 23 giờ 30 phút ta hoàn toàn làm chủ cứ điểm Him Lam…mở toang cánh cửa sắt án ngữ phía bắc cứ điểm Điện Biên Phủ.
Những chi tiết trên cơ bản đúng như chuyện chiến đấu mà anh Nguyễn Hữu Oanh thường kể cho bọn trẻ chúng tôi nghe từ năm 1958 và tại trang 154 trong cuốn “Lịch sử Sư đoàn bộ binh 312” cũng thể hiện như vậy.
Chỉ có điều đáng lẽ ghi Tiểu đội trưởng xung kích Nguyến Hữu Oanh sách lại ghi là Tiểu đội trưởng xung kích Trần Oanh.
Cẩn thận tôi tìm tra một loạt sách hồi ức, ký sự khác của các vị lãnh đạo hàng đầu Quân đội, Bộ Tổng Tham mưu cũng đều ghi là Trần Oanh. Trước sai sót ấy tôi nghĩ ngay tới việc cần phải góp phần vào việc chỉnh sửa lại đúng tên Nguyễn Hữu Oanh trong cuốn sách này.
Ngày gặp gỡ…
Để cẩn thận, đầu năm 2002 tôi tìm tới nhà anh chị Oanh, Thanh; vừa là thăm gia đình sau 45 năm xa cách, vừa là hỏi chuyện lại bác Nguyễn Hữu Oanh về trận đánh Him Lam…
Thật tuyệt vời, mọi tình tiết chiến đấu, tên từng chiến sĩ trong tiểu đội, cán bộ trung đội, đại đội đến trung đoàn…bác Oanh kể khá chi tiết chính xác như mới xảy ra cách đây không lâu.
Bác nhớ mình thuộc biên chế tiểu đội 1 trung đội 4, Đại đội 243, tiểu đoàn 11, trung đoàn 141, Đại đoàn 312. Đặc biệt, với giọng xúc động, bác kể với tôi, đúng trưa ngày 13 tháng 3 năm 1954 trước khi hành quân chiếm lĩnh trận địa đánh trận mở màn chiến dịch, chi bộ đại đội 243 họp công bố quyết định của đảng uỷ cấp trên công nhận bác là đảng viên chính thức.
Ảnh
Trung tướng Trần Linh (trái) và cựu chiến binh Nguyễn Hữu Oanh
Qua chuyện kể tôi được biết bác Oanh, Thanh vẫn liên lạc với người Chính trị viên tiểu đoàn 11 khi đánh Him Lam là Trung tướng Trần Linh, nguyên Phó Tư lệnh Chính trị Bộ đội Biên Phòng.
Tôi tìm đến gặp ông và nêu những ghi chép trận đánh Him Lam qua lời kể của bác Nguyến Hữu Oanh và Trung tướng Trần Linh xác nhận hoàn toàn đúng sự thực.
Từ đó tôi lặng lẽ chuẩn bị cứ liệu để có cơ sở đề xuất với Sư đoàn 312 sửa tên trong sử cho bác Nguyễn Hữu Oanh, dù biết việc này không phải nhanh chóng đạt hiệu quả.
“Mình còn có một gia đình, còn được gặp thủ trưởng…”
Trước sai sót trên, năm 2004 trước dịp kỷ niệm 50 chiến thắng Điện Biên Phủ, tôi và Trung tướng Trần Linh thống nhất thông tin cho gia đình bác Nguyễn Hữu Oanh biết dù đây là tin không vui có thể gây sốc cho bác Oanh.
Tôi đem cuốn “Lịch sử sư đoàn 312” (NXB Quân đội Nhân dân 2000), cuốn “ Điện Biên Phủ, điểm hẹn lịch sử” của Đại tướng Võ Nguyên Giáp- (NXB QĐND 2000) đọc cho bác Nguyễn Hữu Oanh nghe đoạn đánh Him Lam.
Vì bác Oanh có bệnh huyết áp cao, phải sống trong bóng tối suốt 50 năm qua, lường trước diễn biến tâm lý không tốt, tôi cố tạo không khí nhẹ nhàng theo tinh thần có sai thì sửa, sơ xuất này sửa dễ thôi.
Đây là lần đầu tiên bác Oanh được nghe đoạn sử viết về trận đánh Him Lam mà mình là nhân vật trong cuộc. Nghe tôi đọc xong đoạn đó, lặng một lúc bác cất tiếng nhẹ nhàng: “Chuyện về tiểu đội xung kích, sử ghi như thế là đúng, nhưng tên người thì sai. Nhưng thôi, may mình vẫn còn sống, có một gia đình, còn được gặp thủ trưởng”.
Nói đoạn, bác Oanh giang cánh tay lành và phần cánh tay cụt ôm vai Trung tướng Trần Linh, mặt ngẩng lên ra vẻ suy tư làm cả căn phòng nhỏ một chút chìm trong im lặng.
Để lấy lại không khí bình thường, tôi hứa với bác Oanh sẽ có cách làm hợp lý để việc chỉnh lại tên cho bác trong cuốn sử Sư đoàn nhanh được thực hiện.
Với đơn vị, việc làm đó là trách nhiệm, với gia đình, đó là niềm tự hào chính đáng vì đã có người chồng, người cha, người ông đã góp một phần chiến công vào chiến thắng chung của dân tộc. Làm được điều đó chính là tìm lại sự công bằng cho người dũng sĩ Him Lam đã nửa thế kỷ sống không ánh sáng.
“Mấy chục năm qua trong cuộc sống mình vẫn là mình”
Bất ngờ, ngày 10 tháng 2 năm 2007, chuyện buồn ập đến, do tái phát vết thương, người cựu chiến binh, đảng viên 54 năm tuổi đảng Nguyễn Hữu Oanh từ trần.
Trước khi nhắm mắt người dũng sĩ Điện Biên chỉ tâm tư điều rất giản dị rằng: “Nếu có điều kiện đề nghị đơn vị sửa tên trong cuốn sử: đại đội 243 đánh Him Lam không có ai là Trần Oanh. Nếu không sửa được đừng vì thế mà quá buồn lòng, điều quan trọng là mấy chục năm qua trong cuộc sống mình vẫn là mình”.
“Chuyện về tiểu đội xung kích, sử ghi như thế là đúng, nhưng tên người thì sai. Nhưng thôi, may mình vẫn còn sống, có một gia đình, còn được gặp thủ trưởng”.
Sau nỗi đau của gia đình bác Oanh, tôi thấy mình phải xúc tiến nhanh lời dặn của bác.
Và dịp may đã đến, một hôm, tại phòng đọc Thư viện Trung ương Quân đội, tôi tìm thấy trong tập báo lưu năm 1954, tờ báo số 131 ra ngày 20 tháng 7 trang 3 đăng toàn bộ tin các đại đoàn tiến hành Đại hội thi đua, tổng kết chiến dịch Điện Biên Phủ.
Trong số báo này có bài viết về Đại hội mừng công của Đại đoàn 312 kèm một bản danh sách Đại hội bầu được 13 chiến sĩ thi đua của Đại đoàn gồm các anh hùng Trần Can, Phan Đình Giót và ở số thứ tự thứ 4 có tên Nguyễn Hữu Oanh, A trưởng xung kích.
Bài báo còn viết lời biểu dương các chiến sĩ thi đua: “Các chiến sĩ anh hùng ấy mỗi người một vẻ thật xứng đãng với ý nghĩa chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ. Như đồng chí Nguyễn Hữu Oanh người tổ trưởng xung kích vượt qua lưới đạn lanh lẹn nhảy lên chóp chỉ huy sở địch, dương cao ngọn cờ “quyết chiến, quyết thắng” của Bác trong trận Him Lam”.
Có thêm tư liệu quý giá này, tôi tìm gặp Trung tướng Trần Linh đề nghị ông làm nhân chứng để hoàn thiện hồ sơ đề nghị Đảng uỷ, chỉ huy Sư đoàn 312 xem xét chỉnh sửa sai sót nêu trên.
Một thuận lợi nữa, nhân dịp kỷ niệm 60 năm truyền thống Tiểu đoàn Phủ Thông (tiểu đoàn 11E 141), tháng 7 năm 2008, Ban liên lạc truyền thống Tiểu đoàn kịp ấn hành cuốn sách “Tiểu đoàn Phủ Thông” và đã chỉnh sửa tên Nguyễn Hữu Oanh theo ý kiến của Trung tướng Trần Linh.
Ngày 25 tháng 11 năm 2008 tại Sở Chỉ huy Sư đoàn 312, Đại tá Lương Đình Hồng, bí thư Đảng uỷ, Chính uỷ Sư đoàn đã thân mật tiếp chị Nguyễn Thị Thanh và cháu Nguyễn Hữu Dũng con trai cả cùng đi.
Đại tá Lương Đình Hồng thay mặt lãnh đạo, chỉ huy Sư đoàn tiếp thu ý kiến phát hiện của gia đình, những tài liệu liên quan để có cơ sở quyết định chỉnh sửa những sai sót trên trong cuốn Lịch sử Sư đoàn lần bổ sung tái bản tới đây.
Sau ít ngày tiến hành thủ tục gặp gỡ nhân chứng, tra cứu thêm tư liệu khác, ngày 03-12-2008, tại công văn Số 327/CV-SĐ do Đại tá Chính uỷ Lương Đình Hồng ký gửi gia đình chị Nguyễn Thị Thanh và các cơ quan liên quan thông báo quyết định của Đảng uỷ, Chỉ huy Sư đoàn về đính chính toàn văn đoạn văn liên quan tới hành động chỉ huy, chiến đấu của đồng chí Nguyễn Hữu Oanh trong trận Him Lam là:
“Sau loạt bộc phá dữ dội, các chiến sĩ xung kích của tiểu đoàn 11 tràn qua cửa mở. Tiểu đội dao nhọn Nguyễn Hữu Oanh lao vào trung tâm như lốc cuốn. Bị địch cản lại, Oanh phân công 5 chiến sĩ đánh các lô cốt nhỏ, còn anh đánh lô cốt mẹ.
Sau khi lừa địch, áp sát cửa hầm, chỉ bằng một quả thủ pháo, Nguyến Hữu Oanh đã diệt lô cốt mẹ, cắm cờ lên đỉnh lô cốt vẫy toàn đơn vị đánh vào tung thâm…”.
Nhận công văn gia đình, người thân rất phấn khởi, với tôi cũng được nhẹ lòng vì đã góp phần trả lại đúng tên cho người dũng sĩ năm xưa đã từng 5 lần được tặng thưởng Huân chương do lập nhiều chiến công trong chiến đấu.
Sự việc như vậy đã có hậu, cũng xin được nói thêm đôi điều cùng độc giả.
Kể thêm về cuộc sống của người dũng sĩ cắm cờ đồi Him Lam
Năm 1959, sau khi anh chị Oanh, Thanh tổ chức lễ cưới, chị được Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam nhận vào công tác tại trại Nhi đồng miền Bắc, chuyên chăm sóc con em cán bộ cao cấp công tác ở các cơ quan Trung ương.
“Nếu có điều kiện đề nghị đơn vị sửa tên trong cuốn sử: đại đội 243 đánh Him Lam không có ai là Trần Oanh. Nếu không sửa được đừng vì thế mà quá buồn lòng, điều quan trọng là mấy chục năm qua trong cuộc sống mình vẫn là mình”
Khi giặc Mỹ mở cuộc chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, chị Thanh bám Trại nhi đồng Miền Bắc sơ tán lên Lập Thạch, Vĩnh Phúc.
Khó khăn gian khổ nhưng vừa làm vừa học, chị nhanh chóng hoàn thành chương trình bổ túc văn hoá cấp 3 và khoá học nghiệp vụ nuôi dạy trẻ do trên cử đi. Còn bác Oanh theo trại thương binh mù sơ tán lên Tản Lĩnh, Ba Vì.
Vợ chồng xa nhau nhưng đều động viên cố gắng vượt lên gian khó phấn đấu sống sao có ích. Bác Oanh vẫn cùng đồng đội miệt mài học chữ nổi Brai đủ để đọc sách chữ nổi, tham gia lao động trông rau mầu, gia công tráng giấy nến đánh máy, gia công làm giấy ráp chơ cơ sở sản xuất thủ công, làm móc khung cửa…
Vợ chồng xa nhau nhưng đều động viên cố gắng vượt lên gian khó phấn đấu sống sao có ích. Bác Oanh vẫn cùng đồng đội miệt mài học chữ nổi Brai đủ để đọc sách chữ nổi, tham gia lao động trông rau mầu, gia công tráng giấy nến đánh máy, gia công làm giấy ráp chơ cơ sở sản xuất thủ công, làm móc khung cửa…
Lần lượt các năm 1961, 1964, 1970 các cháu Nguyễn Hữu Dũng, Nguyễn Hữu Thành, Nguyễn Thảo Nguyên ra đời được học hành, trưởng thành, có công ăn việc làm, đó là sự đáp đền ý nghĩa nhất của cuộc đời.
Năm 1982 được kết nạp Đảng và từ đó đến 1996 được giao nhiệm vụ Chủ nhiệm nhà trẻ Trung ương, năm 1997 nghỉ hưu tại khu tập thể Pháo đài Láng, cạnh Trường cán bộ Phụ nữ Trung ương.
Phản hồi mới nhất